Những trường hợp giao dịch dân sự có thể bị vô hiệu
Theo quy định tại Điều 117 Bộ luật Dân sự 2015, giao dịch dân sự để phát sinh hiệu lực phải đáp ứng đủ các điều kiện sau đây:
-
Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập;
-
Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện;
-
Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội.
Đồng thời, hình thức của giao dịch dân sự cũng là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự trong trường hợp luật có quy định.
Căn cứ vào các điều kiện có hiệu lực nêu trên, giao dịch dân sự sẽ bị vô hiệu nếu rơi vào một trong các trường hợp sau đây:
1. Giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội
Theo quy định tại Điều 123 Bộ luật Dân sự 2015, giao dịch dân sự có mục đích, nội dung vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội thì vô hiệu.
Trong đó,
– Điều cấm của luật được hiểu là những quy định của luật không cho phép chủ thể thực hiện những hành vi nhất định.
– Đạo đức xã hội là những chuẩn mực ứng xử chung trong đời sống xã hội, được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng.
2. Giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo
Theo đó, việc xác lập một giao dịch dân sự giả tạo có thể nhằm các mục đích sau:
– Khi các bên xác lập giao dịch dân sự một cách giả tạo nhằm che giấu một giao dịch dân sự khác thì hệ quả pháp lý sẽ là:
-
Giao dịch dân sự giả tạo sẽ vị vô hiệu; và
-
Giao dịch dân sự bị che giấu vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp giao dịch đó cũng thuộc các trường hợp bị vô hiệu theo quy định của pháp luật.
– Trường hợp xác lập giao dịch dân sự giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba thì giao dịch dân sự đó vô hiệu.
Như vậy, trong cả 2 trường hợp xác lập giao dịch giả tạo nêu trên dù là để che giấu một giao dịch dân sự khác hay để trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba thì đều dẫn đến hệ quả giao dịch giả tạo bị vô hiệu.
3. Giao dịch dân sự vô hiệu do chủ thể giao kết không đủ điều kiện giao kết
Theo đó, giao dịch dân sự bị vô hiệu trong trường hợp này khi:
(1) Đối tượng giao kết là:
-
Người chưa thành niên;
-
Người mất năng lực hành vi dân sự;
-
Người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi; hoặc
-
Người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.
(2) Có yêu cầu của người đại diện của người đó về việc yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch đó vô hiệu.
(3) Theo quy định của pháp luật giao dịch này phải do người đại diện của họ xác lập, thực hiện hoặc đồng ý.
Khi có đủ 3 yếu tố kể trên, giao dịch dân sự đã giao kết sẽ bị tuyên vô hiệu theo yêu cầu của người đại diện của các đối tượng không đủ điều kiện giao kết hợp đồng.
Tuy nhiên, có 3 trường hợp ngoại lệ mà giao dịch dân sự của những đối tượng kể trên không bị vô hiệu, cụ thể:
-
Giao dịch dân sự của người chưa đủ sáu tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu hàng ngày của người đó;
-
Giao dịch dân sự chỉ làm phát sinh quyền hoặc chỉ miễn trừ nghĩa vụ cho người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự với người đã xác lập, thực hiện giao dịch với họ;
-
Giao dịch dân sự được người xác lập giao dịch thừa nhận hiệu lực sau khi đã thành niên hoặc sau khi khôi phục năng lực hành vi dân sự.
Có thể thấy, nếu giao dịch dân sự do các đối tượng không đủ điều kiện giao kết nhưng không gây hại mà thậm chí còn có lợi cho các đối tượng này hoặc khi đối tượng đã giao kết đã đủ điều kiện và thừa nhận giao kết trước đó thì giao dịch dân sự vẫn phát sinh hiệu lực.
4. Giao dịch dân sự vô hiệu do bị nhầm lẫn
Cụ thể, trong trường hợp giao dịch dân sự được xác lập có sự nhầm lẫn làm cho một bên hoặc các bên không đạt được mục đích của việc xác lập giao dịch thì bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu.
Ngoại lệ:
Giao dịch dân sự được xác lập có sự nhầm lẫn không vô hiệu trong trường hợp mục đích xác lập giao dịch dân sự của các bên đã đạt được hoặc các bên có thể khắc phục ngay được sự nhầm lẫn làm cho mục đích của việc xác lập giao dịch dân sự vẫn đạt được.
5. Giao dịch dân sự vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép
Theo quy định tại Điều 127 Bộ luật Dân sự 2015, khi một bên tham gia giao dịch dân sự do bị lừa dối hoặc bị đe dọa, cưỡng ép thì có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu.
Cụ thể:
– Lừa dối trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý của một bên hoặc của người thứ ba nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của giao dịch dân sự nên đã xác lập giao dịch đó.
– Đe dọa, cưỡng ép trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý của một bên hoặc người thứ ba làm cho bên kia buộc phải thực hiện giao dịch dân sự nhằm tránh thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản của mình hoặc của người thân thích của mình.
6. Giao dịch dân sự vô hiệu do người xác lập không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình
Người có năng lực hành vi dân sự nhưng đã xác lập giao dịch vào đúng thời điểm không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình thì có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu.
7. Giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức
Theo đó, giao dịch dân sự vi phạm quy định điều kiện có hiệu lực về hình thức thì vô hiệu.
Ngoại lệ:
Trong 2 trường hợp sau, giao dịch dân sự không tuân thủ quy định về hình thức nhưng vẫn phát sinh hiệu lực:
– Giao dịch dân sự đã được xác lập theo quy định phải bằng văn bản nhưng văn bản không đúng quy định của luật mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, Tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó.
– Giao dịch dân sự đã được xác lập bằng văn bản nhưng vi phạm quy định bắt buộc về công chứng, chứng thực mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, Tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó. Trong trường hợp này, các bên không phải thực hiện việc công chứng, chứng thực.
Trên đây là toàn bộ những trường hợp giao dịch dân sự có thể bị vô hiệu nếu có đủ các yếu tố theo quy định tại Bộ luật Dân sự 2015. Các chủ thể khi giao kết giao dịch dân sự cần lưu ý để tránh giao dịch dân sự bị vô hiệu dẫn đến mục đích của các bên không thể thực hiện được.
Toc
- 1. Những trường hợp giao dịch dân sự có thể bị vô hiệu
- 1.1. Theo quy định tại Điều 117 Bộ luật Dân sự 2015, giao dịch dân sự để phát sinh hiệu lực phải đáp ứng đủ các điều kiện sau đây:
- 1.2. Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập;
- 1.3. Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện;
- 1.4. Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội.
- 1.5. Đồng thời, hình thức của giao dịch dân sự cũng là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự trong trường hợp luật có quy định.
- 1.6. Căn cứ vào các điều kiện có hiệu lực nêu trên, giao dịch dân sự sẽ bị vô hiệu nếu rơi vào một trong các trường hợp sau đây:
- 1.7. 1. Giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội
- 1.8. Theo quy định tại Điều 123 Bộ luật Dân sự 2015, giao dịch dân sự có mục đích, nội dung vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội thì vô hiệu.
- 1.9. Trong đó,
- 1.10. – Điều cấm của luật được hiểu là những quy định của luật không cho phép chủ thể thực hiện những hành vi nhất định.
- 1.11. – Đạo đức xã hội là những chuẩn mực ứng xử chung trong đời sống xã hội, được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng.
- 1.12. 2. Giao dịch dân sự vô hiệu do giả tạo
- 1.13. Theo đó, việc xác lập một giao dịch dân sự giả tạo có thể nhằm các mục đích sau:
- 1.14. – Khi các bên xác lập giao dịch dân sự một cách giả tạo nhằm che giấu một giao dịch dân sự khác thì hệ quả pháp lý sẽ là:
- 1.15. Giao dịch dân sự giả tạo sẽ vị vô hiệu; và
- 1.16. Giao dịch dân sự bị che giấu vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp giao dịch đó cũng thuộc các trường hợp bị vô hiệu theo quy định của pháp luật.
- 1.17. – Trường hợp xác lập giao dịch dân sự giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba thì giao dịch dân sự đó vô hiệu.
- 1.18. Như vậy, trong cả 2 trường hợp xác lập giao dịch giả tạo nêu trên dù là để che giấu một giao dịch dân sự khác hay để trốn tránh nghĩa vụ với người thứ ba thì đều dẫn đến hệ quả giao dịch giả tạo bị vô hiệu.
- 1.19. 3. Giao dịch dân sự vô hiệu do chủ thể giao kết không đủ điều kiện giao kết
- 1.20. Theo đó, giao dịch dân sự bị vô hiệu trong trường hợp này khi:
- 1.21. (1) Đối tượng giao kết là:
- 1.22. Người chưa thành niên;
- 1.23. Người mất năng lực hành vi dân sự;
- 1.24. Người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi; hoặc
- 1.25. Người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.
- 1.26. (2) Có yêu cầu của người đại diện của người đó về việc yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch đó vô hiệu.
- 1.27. (3) Theo quy định của pháp luật giao dịch này phải do người đại diện của họ xác lập, thực hiện hoặc đồng ý.
- 1.28. Khi có đủ 3 yếu tố kể trên, giao dịch dân sự đã giao kết sẽ bị tuyên vô hiệu theo yêu cầu của người đại diện của các đối tượng không đủ điều kiện giao kết hợp đồng.
- 1.29. Tuy nhiên, có 3 trường hợp ngoại lệ mà giao dịch dân sự của những đối tượng kể trên không bị vô hiệu, cụ thể:
- 1.30. Giao dịch dân sự của người chưa đủ sáu tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu hàng ngày của người đó;
- 1.31. Giao dịch dân sự chỉ làm phát sinh quyền hoặc chỉ miễn trừ nghĩa vụ cho người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự với người đã xác lập, thực hiện giao dịch với họ;
- 1.32. Giao dịch dân sự được người xác lập giao dịch thừa nhận hiệu lực sau khi đã thành niên hoặc sau khi khôi phục năng lực hành vi dân sự.
- 1.33. Có thể thấy, nếu giao dịch dân sự do các đối tượng không đủ điều kiện giao kết nhưng không gây hại mà thậm chí còn có lợi cho các đối tượng này hoặc khi đối tượng đã giao kết đã đủ điều kiện và thừa nhận giao kết trước đó thì giao dịch dân sự vẫn phát sinh hiệu lực.
- 1.34. 4. Giao dịch dân sự vô hiệu do bị nhầm lẫn
- 1.35. Cụ thể, trong trường hợp giao dịch dân sự được xác lập có sự nhầm lẫn làm cho một bên hoặc các bên không đạt được mục đích của việc xác lập giao dịch thì bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu.
- 1.36. Ngoại lệ:
- 1.37. Giao dịch dân sự được xác lập có sự nhầm lẫn không vô hiệu trong trường hợp mục đích xác lập giao dịch dân sự của các bên đã đạt được hoặc các bên có thể khắc phục ngay được sự nhầm lẫn làm cho mục đích của việc xác lập giao dịch dân sự vẫn đạt được.
- 1.38. 5. Giao dịch dân sự vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép
- 1.39. Theo quy định tại Điều 127 Bộ luật Dân sự 2015, khi một bên tham gia giao dịch dân sự do bị lừa dối hoặc bị đe dọa, cưỡng ép thì có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu.
- 1.40. Cụ thể:
- 1.41. – Lừa dối trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý của một bên hoặc của người thứ ba nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của giao dịch dân sự nên đã xác lập giao dịch đó.
- 1.42. – Đe dọa, cưỡng ép trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý của một bên hoặc người thứ ba làm cho bên kia buộc phải thực hiện giao dịch dân sự nhằm tránh thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản của mình hoặc của người thân thích của mình.
- 1.43. 6. Giao dịch dân sự vô hiệu do người xác lập không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình
- 1.44. Người có năng lực hành vi dân sự nhưng đã xác lập giao dịch vào đúng thời điểm không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình thì có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu.
- 1.45. 7. Giao dịch dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức
- 1.46. Theo đó, giao dịch dân sự vi phạm quy định điều kiện có hiệu lực về hình thức thì vô hiệu.
- 1.47. Ngoại lệ:
- 1.48. Trong 2 trường hợp sau, giao dịch dân sự không tuân thủ quy định về hình thức nhưng vẫn phát sinh hiệu lực:
- 1.49. – Giao dịch dân sự đã được xác lập theo quy định phải bằng văn bản nhưng văn bản không đúng quy định của luật mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, Tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó.
- 1.50. – Giao dịch dân sự đã được xác lập bằng văn bản nhưng vi phạm quy định bắt buộc về công chứng, chứng thực mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, Tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó. Trong trường hợp này, các bên không phải thực hiện việc công chứng, chứng thực.
- 1.51. Trên đây là toàn bộ những trường hợp giao dịch dân sự có thể bị vô hiệu nếu có đủ các yếu tố theo quy định tại Bộ luật Dân sự 2015. Các chủ thể khi giao kết giao dịch dân sự cần lưu ý để tránh giao dịch dân sự bị vô hiệu dẫn đến mục đích của các bên không thể thực hiện được.